Theo đó, tiền ký quỹ được sử dụng để thanh toán tiền lương, trợ cấp,
bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, bảo hiểm tai nạn
lao động, bệnh nghề nghiệp hoặc bồi thường cho người lao động thuê lại
trong trường hợp doanh nghiệp cho thuê vi phạm hợp đồng lao động với
người lao động thuê lại hoặc gây thiệt hại cho người lao động do không
bảo đảm về quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động thuê lại.
Về nộp tiền ký quỹ: Doanh nghiệp cho thuê thực hiện thủ tục nộp tiền ký
quỹ theo đúng quy định của ngân hàng và tuân thủ quy định của pháp
luật. Ngân hàng nhận ký quỹ có trách nhiệm cấp giấy chứng nhận tiền ký
quỹ hoạt động cho thuê lại lao động sau khi doanh nghiệp cho thuê hoàn
thành thủ tục ký quỹ. Trường hợp thay đổi một trong các thông tin trên
giấy chứng nhận tiền ký quỹ hoạt động cho thuê lại lao động, gồm: tên
doanh nghiệp, địa chỉ trụ sở chính, số tài khoản ký quỹ thì doanh nghiệp
cho thuê gửi văn bản đề nghị và các tài liệu chứng minh việc thay đổi
thông tin tới ngân hàng nhận ký quỹ để thay đổi giấy chứng nhận tiền ký
quỹ hoạt động cho thuê lại lao động.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quyết định cho phép doanh nghiệp rút tiền ký quỹ trong 5 trường hợp sau:
- Doanh nghiệp cho thuê gặp khó khăn tạm thời, không đủ khả năng thanh
toán tiền lương, trợ cấp, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất
nghiệp, bảo hiểm tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp đối với người lao
động thuê lại theo quy định của pháp luật sau 30 ngày, kể từ ngày đến
thời hạn thanh toán;
-Doanh nghiệp cho thuê gặp khó khăn tạm thời, không đủ khả năng bồi
thường cho người lao động thuê lại trong trường hợp doanh nghiệp vi phạm
hợp đồng lao động với người lao động thuê lại hoặc gây thiệt hại cho
người lao động do không bảo đảm về quyền và lợi ích hợp pháp của người
lao động thuê lại sau thời hạn 60 ngày, kể từ ngày đến hạn bồi thường;
- Doanh nghiệp không được cấp giấy phép;
- Doanh nghiệp cho thuê bị thu hồi giấy phép hoặc không được gia hạn, cấp lại giấy phép;
- Doanh nghiệp cho thuê đã thực hiện ký quỹ tại một ngân hàng thương mại khác.
Nghị định cũng quy định việc trích tiền ký quỹ khi doanh nghiệp cho
thuê không thực hiện nghĩa vụ đối với người lao động cho thuê lại. Cụ
thể: trích tiền ký quỹ của doanh nghiệp để thanh toán các chế độ, quyền
lợi cho người lao động thuê lại trong trường hợp sau 60 ngày kể từ ngày
đến thời hạn thanh toán mà doanh nghiệp không thực hiện thanh toán và
không có văn bản đề nghị rút tiền ký quỹ để thanh toán các chế độ, quyền
lợi cho người lao động thuê lại.
Sở Lao động – Thương binh và Xã hội có trách nhiệm kiểm tra, xác minh
và yêu cầu doanh nghiệp cho thêu báo cáo danh sách người lao động thuê
lại, số tiền chưa được thanh toán, bồi thường của từng người. Trong thời
hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được yêu cầu của Sở LĐTBH, doanh
nghiệp cho thuê lại phải hoàn thành việc báo cáo nêu trên. Trong thời
hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được báo cáo của doanh nghiệp, Sở
LĐTBH tổng hợp, trình Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh quyết định việc
trích tiền ký quỹ của doanh nghiệp để thực hiện chi trả cho người lao
động cho thuê lại theo quy định.
Trong thời hạn 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận được đề nghị của Sở
LĐTBH, Chủ tịch UBND tỉnh quyết định trích tiền ký quỹ của doanh nghiệp.
Trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận được quyết định của Chủ
tịch UBND tỉnh về việc trích tiền ký quỹ, ngân hàng nhận ký quỹ thực
hiện trích tiền ký quỹ của doanh nghiệp và trực tiếp chi rả theo phương
án và danh sách kèm theo quyết định của Chủ tịch UBND tỉnh, sau khi trừ
chi phí dịch vụ ngân hàng.
Sở LĐTBXH có trách nhiệm giám sát việc thực hiện thanh toán, bồi thường
cho người lao động thuê lại theo quy định và báo cáo kết quả thực hiện
về UBND cấp tỉnh.
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày tiền được rút ra khỏi tài khoản ký
quỹ, doanh nghiệp phải nộp bổ sung tiền ký quỹ đảm bảo theo quy định.
Sau thời hạn quy định, nếu doanh nghiệp cho thuê không bổ sung đầy đủ
tiền ký quỹ, ngân hàng nhận ký quỹ có trách nhiệm thông báo bằng văn bản
cho Sở LĐTBH và UBND cấp tỉnh.
Xem toàn văn văn bản tại đây.